Hòa thượng pháp danh Thiện Lạc, pháp hiệu Hồng Liên, thuộc Thiền phái Lâm Tế, dòng kệ Gia Phổ đời thứ 40. Ngài thế danh Nguyễn Văn Ánh, sinh ngày 12 tháng 12 năm Bính Thìn (1915), tại xã Long Khánh, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Thân phụ là cụ Nguyễn Văn Thị, thân mẫu là bà Châu Thị Giá.
Hòa thượng Thích Viên Thành, pháp húy Trừng Thông, thế danh là Công Tôn Hoài Trấp, sinh ngày ngày 17 tháng 11 năm Kỷ Mão (1879) nhằm năm Tự Đức thứ 32 tại Kinh đô Huế.
Hòa thượng Thích Liễu Không, pháp danh Thị Duật, pháp tự Hạnh Pháp, thế danh Nguyễn Xuân Đệ, sinh ngày 20 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), tại thôn Hữu Pháp, xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Thân phụ của ngài là cụ ông Nguyễn Nhạc, pháp danh Như Thiện, thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Hoài, pháp danh Thị Lân. Ông bà có ba người con: hai người con gái và ngài là người con trai duy nhất. Cả gia đình đều là Phật tử chùa Thiên Bình.
Hòa thượng Pháp Lạc, thế danh là Trần Công Khuê, sinh ngày 28 tháng 02 năm 1904 (nhằm ngày 13 tháng Giêng năm Giáp Thìn), tại xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngài là trưởng nam của cụ ông Trần Công Trác và cụ bà Phạm Thị Cải.
Hòa thượng Thích Phổ Huệ người họ Trần sinh năm Canh Ngọ – 1870 tại xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định (đồng hương với Quốc sư Phước Huệ).
Hòa thượng pháp húy Kim Cương Tử, pháp hiệu Thúy Đồ Ba Thành, thế danh Trần Hữu Cung, sinh ngày 16 tháng 10 năm Giáp Dần (1914) tại xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ngài là con trai độc nhất trong gia đình, thân phụ là cụ ông Trần Hữu Tạo, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Quy.
Hòa thượng Thích Thiện Thông, nguyên quán tại huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Từ thuở lên 7 tuổi, do tấm lòng thiết tha mộ đạo, nên ngài được song thân cho vào chùa Long Phước cầu xin tu học.
Hòa thượng Maha Thạch SaRây, sinh năm Mậu Ngọ, Phật lịch 2462 (dương lịch 1918) tại Phum Pnô-răng, xã Long Sơn, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Cha tên Thạch Long và mẹ tên Thạch Thị Nône. Gia đình Hòa thượng có 5 anh chị em.
Hòa thượng Thích Thanh Hiền, pháp hiệu Minh Tâm, thế danh Phạm Thanh Huyên, sinh ngày 08 tháng 10 năm Mậu Ngọ 1918, tại thôn Lăng Tĩnh, xã Nam Chính, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Ngài sinh ra và lớn lên trong một gia đình kính tin Tam bảo.
Hòa thượng họ Võ, húy Trọng Tường, pháp danh Tâm Phật, pháp tự Trí Đức, hiệu Thiện Siêu. Hòa thượng sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu (1921), trong một gia đình thâm Nho tín Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ ông Võ Trọng Giáng, thân mẫu là cụ bà Dương Thị Viết.
Hòa thượng Thích Đức Nhuận, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quý Hợi (19.01.1924). Ngài sinh quán tại làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là cụ ông Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn, hiệu Trinh Thục. Ngài là con thứ tư trong một gia đình có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
Trưởng lão Hòa thượng Hộ Nhẫn, thế danh Tôn Thất Thuế, sinh năm Canh Tý 1924, tại thôn Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngài thuộc dòng dõi hoàng gia thế hệ thứ chín, thuộc đệ Tứ phòng. Phụ thân là cụ ông Tôn Thất Tích, pháp danh Nguyên Phước, mẫu thân là cụ bà Phan Thị Cưỡng, pháp danh Nguyên Thâm. Ngài có tất cả năm anh chị em, hai trai, ba gái, ngài và hai em gái đều theo Phật xuất gia. Ngài có thể chất mảnh dẻ nhưng có ý chí, đầy nghị lực trên đường tu tập.