Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn là vị thánh Mẫu thứ 2 thuộc Tam Tòa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, bên cạnh Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải. Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, địa bán chính sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số.
Đức Ông Đệ Tam Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng hay còn được gọi là Đức Ông Cửa Suốt, Thánh ông Cửa Đông, Đông Hải Hưng Nhượng Vương, ngài là con trai thứ 3 của Đức Thánh Trần, gọi chung là Tứ Vị Vương Tử
Chúa Bói Cà Phê thuộc Nhạc Phủ, là bà chúa bói người Nùng từ thời thượng cổ (đến nay chưa có tài liệu nào ghi chính xác là Chúa Cà Phê giáng hạ dưới thời nào), chỉ biết rằng trong các vị Chúa Bói trên ngàn, bà là người có nhiều quyền phép nhất (có một số quan niệm cho rằng Bà Chúa Cà Phê là Bà Tổ Chúa Bói, tức là bà chúa bói đầu tiên của nước Việt ta), tuy nhiên bà lại sống ẩn dật trong núi, không xuất thế. Vậy nên ít người biết tới bà, thế nhưng bà vẫn phải thỉnh sau Tam Vị Chúa Mường.
Cư sĩ Nguyễn Văn Hiểu sinh ngày 01/10/1896 tại làng Tân An, tổng Định Bảo, tỉnh Cần Thơ, con của ông Nguyễn Quang Diệu và bà Mai Thị Đường.
Chúa Nguyệt Hồ còn gọi là Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ hay Chúa Bói Nguyệt Hồ. Gọi Chúa Nguyệt Hồ là Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ bởi Chúa là chúa thứ hai trong Tam vị Chúa Mường. Ngoài ra, Chúa Nguyệt Hồ còn gọi là Nguyệt Nga Công chúa. Bà được biết tới là vị chúa Bói nổi tiếng linh thiêng bậc nhất Việt Nam, được nhân dân tôn kính phối thờ trong tín ngưỡng Tứ phủ.
Hòa thượng có pháp danh Liễu Ngọc, tự Phổ Minh, sau khi cầu pháp với Tổ Tiên Giác – Hải Tịnh được pháp hiệu là Minh Ngọc, tự Châu Hoàn, nối pháp dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 37.
Hòa thượng Thích Tâm Truyền có pháp danh Thanh Minh, tự Huệ Văn, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 41, tục danh là Đỗ Lương, sinh ngày 13 tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1832) – Minh Mạng thứ 13, tại thôn Tiên Kiên, tổng Bích Khê, tỉnh Quảng Trị.
Hòa thượng Thích Thiện Quảng mang họ Trần, không rõ tên thật, sinh tại Bến Tre năm Nhâm Tuất (1862) trong một gia đình thuộc hàng trung phú. Thuở ấu thơ, Ngài đã sớm được song thân đặc biệt tin yêu, đặt nhiều kỳ vọng nên đã mời các thầy đồ đến tận nhà trực tiếp chăm lo việc giáo dục học hành và luyện võ nghệ như bất cứ một gia đình có đầy đủ điều kiện khác.
Hòa thượng Thích Huệ Thành, thế danh Nguyễn Toàn Trung, sinh năm Nhâm Tý (1912), tại xã Phú Hữu, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Dạo – pháp danh Huệ Định, một nhà Nho yêu nước, tham gia phong trào Duy Tân và lãnh đạo phong trào Thiên Địa Hội. Thân mẫu là cụ là Phạm Thị Đồng – pháp danh Diệu Từ.
Hòa thượng pháp húy Tâm Phước, pháp tự Thông Như, pháp hiệu Hạnh Hải, thuộc Thiền phái Lâm Tế đời thứ 43, dòng kệ Liễu Quán. Ngài sinh ngày 28 tháng 11 năm Bính Thìn (1916), tại thôn Quang Đông, huyện Ninh Hòa, Khánh Hòa. Thế danh của ngài là Phan Cẩm Long.
Hòa thượng Thích Huệ Pháp có pháp danh Thanh Tú, pháp tự Phong Nhiêu, Ngài họ Đinh, sinh năm Tân Mùi 1871 (Tự Đức thứ 24), tại làng Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị.
Hòa thượng sinh vào ngày 12 tháng 9 năm Mậu Thìn (1928), tại làng Minh Hương, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ ngài là cụ ông Lý Trạch Chương, pháp danh Tâm Viên và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mai, pháp danh Tâm Chơn.