Hòa thượng, danh xưng Nguyễn Văn An, pháp danh Thích Pháp Hải, sinh ra vào năm Ất Mùi (1895) tại làng Thông Dong, quận Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc, hiện thuộc tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Văn Dá và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Tốt.
Ngài Mật Thể, còn được biết đến với pháp danh Tâm Nhất và pháp tự Mật Thể, sinh năm 1912 tại làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ngài thuộc Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, và là thành viên của dòng Thích Lý, thuộc dòng họ của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài chú trọng đạo Phật, cả cụ thân sinh và người anh ruột đều đã xuất gia.
Hòa thượng Thích Phước Nhàn, hay Trương Văn Ninh, ra đời năm Bính Tuất (1886) tại làng Phú Bình, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Mặc dù sinh ra trong một gia đình theo đạo Nho, tâm hồn của Ngài từ sớm đã được thấu hiểu sâu sắc về Phật giáo. Trong giai đoạn nhỏ tuổi, Ngài được gia đình đưa đi học chữ Nho, giúp Ngài sớm hình thành nền tảng vững chắc về văn hóa thi lễ truyền thống.
Hòa thượng có thế danh Nguyễn Văn Cự, pháp danh Ngộ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ, sanh ngày mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi (1875) triều Tự Đức thứ 28, tại làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Ngài có pháp danh là Tâm Hương, nối pháp đời thứ 43 dòng thiền Lâm Tế. Ngài thế danh Nguyễn Duy Quảng, sinh ngày 04/02/1907 (tức năm Đinh Mùi) tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (Huế) trong một gia đình thuần túy sùng kính Phật giáo.
Ngài có pháp danh là Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
Ngài có thế danh là Nguyễn Quang Tống, pháp danh Nhựt Minh, húy Chơn Tảo, hiệu Trí Từ, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40, sinh ngày rằm tháng 8 năm Mậu Thân (10-9-1908) tại xã Tân Lợi, tổng Quản Long, quận Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu (nay là tỉnh Minh Hải).
Ngài thế danh là Phạm Đức Hạp, pháp hiệu Thanh Thiện, pháp danh Đức Nhuận, sinh năm Đinh Dậu, triều Thành Thái năm thứ 9 (1897), tại Quần Phương, xã Hải Phương; huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định (nay là tỉnh Nam Hà).
Cư sĩ Nguyễn Hữu Kha, pháp danh Thiều Chửu, tên tự là Lạc Khổ, sinh năm Nhâm Dần (1902), tại làng Trung Tự, quận Đống Đa, Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học nhiều đời, thân sinh là cụ Cử Cầu, một nhà hoạt động cách mạng lão thành trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông là người con thứ hai trong bốn anh em: 3 trai, 1 gái.
Cư sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quí nhiều đời làm quan. Thân sinh là Binh Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự Đức.
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp – Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon.
Tục thờ tứ vị thánh nương là một trường hợp độc đáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, phản ánh tâm thức của người Việt về một nữ thần ngoài nước du nhập vào Việt Nam. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, Tứ Vị Vua Bà là vị Mẫu Thần được phối thờ cùng hệ thống thần điện