Thiền sư Đạo Viên (Viên Chứng) còn có hiệu là Phù Vân, được vua Trần Thái Tông tôn xưng là Quốc sư Trúc Lâm, là đệ tử của Thiền sư Hiện Quang, thuộc thế hệ thứ 15 của phái thiền Vô Ngôn Thông.
Thiền sư Đại Đăng là đệ tử của Quốc sư Phù Vân, hiện không có tài liệu nên chưa biết được về quê quán, hành trạng và tư tưởng của Sư. Theo Thánh đăng lục và Trần triều Thiền tông bản hạnh, Thiền sư Đại Đăng thuộc thế hệ thứ ba của phái thiền Yên Tử, nhưng sư cũng tiếp nhận truyền thừa của Thiền sư Thiên Phong – Nguyên Trường thuộc thế hệ 20 phái Thiền Lâm Tế (Trung Quốc).
Thiền sư Tiêu Dao là đệ tử của Thiền sư Đại Đăng, thuộc thế hệ thứ tư của sơn môn Yên Tử, đồng thời cũng đắc pháp với Thiền sư Ứng Thuận thuộc phái thiền Vô Ngôn Thông.
Hiện chúng ta không có tài liệu nên chưa biết rõ quê quán và hành trạng của thiền sư Huệ Tuệ, chỉ biết sư là đệ tử của Thiền sư Tiêu Dao và là người kế thế trụ trì ở sơn môn Yên Tử.
Cố đại lão Hòa thượng Thích Thông Tiến – thế danh là Nguyễn Duy Tiến, sinh năm 1889 tại làng Mai Xá, xã Công Xá, huyện Nam Xương phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ngài là con thứ trong gia đình có truyền thống Nho học, vì vậy, ngay từ khi còn nhỏ Ngài đã bộc lộ khí chất thông minh, am hiểu nho học, phép tắc nho gia.
Hòa thượng họ Phạm, pháp danh Thích Nguyên Biểu, hiệu Nhất Thiết, sinh năm Bính Thân (1836) trong triều vua Minh Mạng thứ 17 tại huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Thân phụ của Ngài là Phạm tướng công, húy Quang Tự, hiệu Trung Tín, tự Khoan Bình, và thân mẫu là cụ bà Trần thị Ngọc, hiệu Từ Niệm. Hòa thượng Thích Nguyên Biểu thuộc dòng ba đời khoa bảng.
Tổ Hoằng Ân thế danh Nguyễn Văn Khiêm, húy Minh Khiêm, pháp hiệu Liễu Khiêm-Diệu Nghĩa, là một nhân vật lịch sử quan trọng trong hành trình truyền bá Phật pháp và đóng góp vào sự phát triển của thiền môn ở Việt Nam. Ngài sinh ngày Rằm tháng 07 năm Canh Tuất (1850), tại làng Bà Điểm, tỉnh Gia Định.
Hòa thượng Minh Hòa – Hoan Hỷ, hay còn được biết đến với tên thế danh là Nguyễn Thiên Hỷ, sinh vào năm Bính Ngọ (1846) tại ấp Giồng Cám, làng Đức Hòa, quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay là Long An). Sinh ra trong một gia đình hằng kính, tín ngưỡng đạo Phật, Ngài nhận ảnh hưởng, có nguồn ân phúc nơi cửa Phật từ thuở nhỏ.
Hòa thượng Thích Vĩnh Gia họ Đoàn, tên Nhược, quê quán làng Thế Dương, quận Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, sinh vào năm thứ 21, triều vua Minh Mạng (1840). Xuất thân trong một gia đình nho phong, vốn tư chất thông minh, lại hiếu học, lúc ấy khi Ngài được 18 tuổi thì thân sinh lâm chung. Từ đó, Ngài vân du khắp các chốn, tìm thầy, thêm bạn, mở rộng kiến thức.
Hòa thượng Thích Chánh Hậu, sinh năm 1852, có thế danh là Trà Xuân Tồn, gốc người Minh Hương, tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang.
Tổ Phi Lai (Tổ Như Hiển – Chí Thiền), tên thật Nguyễn Văn Hiển, hay được biết đến với tên Pháp hiệu Chí Thiền, là một nhân vật vô cùng đặc biệt trong lịch sử Phật giáo. Ngài ra đời vào tháng 02 năm Tân Dậu (1861) tại Quảng Nam, xã Diêm Sơn, huyện Duy Xuyên, trong một gia đình có truyền thống làm quan triều đình và tận tâm với Phật pháp. Ông nội của Ngài là Hộ Quốc Công Nguyễn Công Thành, một quan Tổng Trấn Quảng Nam được lòng dân chúng dưới triều Tự Đức.
Hòa thượng Thích Mật Khế (1904 – 1935) là một hậu duệ xuất sắc của Hòa thượng Giác Tiên, người đã hướng dẫn và truyền đạt Phật pháp cho Ngài từ khi Ngài còn là một đứa trẻ. Ngài Mật Khế sinh vào năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Thái thứ 16 (1904) tại làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.