Thiền sư Pháp Loa (1284 – 1330), theo sách Tam tổ thực lục thì Sư sinh giờ Mão, ngày 7 tháng 5 năm Giáp Thân tại thôn Đồng Hòa, hương Cửu La, bên bờ sông Nam Sách. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Một đêm nọ mẹ Sư nằm mộng thấy có người trao thanh kiếm thần, bà thích lắm nhận lấy và từ đó mang thai Sư. Do sinh liên tiếp 8 người con gái nên bà có ý hủy thai, nhưng uống thuốc phá thai đến bốn lần vẫn không thực hiện được ý định của mình, đến khi sinh Sư, bà mừng lắm đặt tên là Kiên Cương.
Trong sách Thiền uyển tập anh có ghi chép về Sư như sau: Chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức, người làng Phù Ninh, họ Phạm. Triều Lý Cao Tôn, Sư làm quan Lệnh đô tào ở cung Quảng Từ. Sau từ quan, đi học pháp xuất thế với Quảng Nghiêm chùa Tịnh Quả, bèn chính thân được tâm ấn. Sư hầu thầy nhiều năm, rồi đến ở ngôi chùa xưa tại làng Ông Mạc(1) để giảng diễn giáo chỉ. Sau đó rời sang chùa Lục Tổ. Môn đồ Sư càng ngày càng đông.
Thiền sư Thần Nghi (? – 1216) đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông. Thiền sư là người họ Quách, quê ở Ngoại Trại, gia đình tu hành trong sạch.
Chú thích số 1 trong bài viết Tiểu sử và sự nghiệp của đệ tam tổ thiền phái Trúc Lâm Huyền Quang của tác giả Nguyễn Minh Tường cho biết: “Họ tên thật của Huyền Quang, nhiều sách chép khác nhau: Trần Đạo Tái (Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển); Lý Tải Đạo (Tam tổ thực lục); Lý Đạo Tái (được nhiều sách nói đến)”.
Sư hiệu là Quán Viên ở chùa Đông Sơn, giới hạnh thanh bạch, tuệ giải tròn đầy, mấy mươi năm mà không xuống núi. Vì tài liệu về Quán sư rất ít nên không biết Sư tịch lúc nào, ở đâu và thuộc hệ phái nào.
Sư người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, họ Nguyễn, tên Bình An, đạo hiệu là Đức Minh. Cha tên Hương, mẹ là Trần Thị Hoa. Một hôm, mẹ mộng thấy Phật giáng hạ, rồi có mang sinh ra Sư. Năm lên sáu tuổi, cha mẹ mất cả, phải ở nhà bà cô. Cô vốn nhà làm ruộng, bắt Sư chăn trâu. Sư vẫn còn nhỏ, nhưng rất mộ đạo Phật, ở túp nhà tranh bên đường, bày bàn thờ Phật bên tả, thường lấy cơm làm oản cúng.
Ni sư họ Phạm, con gái của một gia đình đời đời làm quan. Ni sư xuất gia tu ở am trên núi Thanh Lương. Ni sư tu khổ hạnh, trì giới chuyên cần, tuệ giải thông suốt, thường ngồi thiền định, diện mạo giống hệt La-hán. Kẻ đạo người tục xa gần đều kính mộ, danh tiếng Ni sư lừng lẫy, là bậc tông sư của Ni chúng cả nước, tên tuổi ngang hàng với các bậc Cao tăng. Vua Trần Nghệ Tông (1370-1372) ban hiệu là “Tuệ Thông đại sư”.
Lý Thường Kiệt là một nhân vật lịch sử kiệt xuất của dân tộc Việt Nam hồi thế kỉ XI, ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ và bà Hàn Diệu Chi. Ngô An Ngữ là tướng của Khai Quốc Vương Lý Long Bồ – người con trai thứ hai của Lý Thái Tổ.
Chu Mạnh Trinh (Nhâm Tuất 1862 – Ất Tỵ 1905) là danh sĩ, tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân; quê ở làng Phú Thọ, huyện Đông Anh, Phủ Khoái Châu (nay là xã Mễ Sở, huyện Châu Giang), tỉnh Hưng Yên. Ông là một nhà nho nổi tiếng có tài văn phú và sự phóng khoáng hào hoa, thành thạo cả cầm, kì, thi, họa và còn giỏi cả về kiến trúc.
Nguyễn Khuyến (chữ Hán: 阮勸), tên thật là Nguyễn Thắng (阮勝), hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Ông có một người bạn tri kỉ tên là Dương Khuê.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) còn có tên là Văn Đạt, tên chữ là Hanh Phú, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng).
Mạc Đĩnh Chi sinh năm 1280, tên tự là Tiết Phu, quê ở làng Lũng Động (Chí Linh). Tương truyền ông mồ côi cha từ nhỏ, hằng ngày phải vào rừng chặt củi kiếm sống, nuôi mẹ. Vì dáng người thấp bé, dung mạo xấu xí nên ông thường bị trêu chọc, khinh rẻ.