Đại sư Phổ Tịnh (Đời pháp thứ 43, tông Lâm Tế) Thiền sư quê ở Võ Lăng, Thượng Phước. Thuở nhỏ đã theo Hòa thượng Phúc Điền xuất gia tu học. Một hôm, Sư đến chùa Vân Trai đảnh lễ Đại sư Tường Quang xin thọ giới Cụ túc.
Đại sư Thông Vinh (Đời pháp thứ 44, tông Lâm Tế) Thiền sư quê ở Nhân Kiệt, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ, Sư đến chùa Hàm Long xin cầu xuất gia, thế độ. Lớn lên, Sư đến Hòa thượng Phúc Điền thọ giới Cụ túc.
Cậu Hoàng Cả là vị Thánh Cậu thứ nhất trong hàng thập vị Thánh Cậu trong Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ phủ. Theo tên bản đền cậu về ngự mà có nhiều danh xưng khác nhau: Cậu Hoàng Cả Sòng Sơn, Cậu Hoàng Cả Phủ Dầy,… Cậu xuất thân hoàng tộc chốn thiên cung, được Vua Cha cử xuống hạ giới phù dân vệ quốc và về trời khi tuổi còn niên thiếu. Nhưng đôi khi, các cậu lại hóa thành một người hầu cận bên một vị quan, hoặc góp công giúp dân bảo về đất nước chứ không cứ là Hoàng Tử chốn thiên cung. Sau đó, họ sẽ hiển linh thành các Cậu Bé Thánh phụ tá các Ông Hoàng. Thông thường các Cậu ngự tại Lầu Cậu tại các đền phủ, tại đó có thể thờ tượng một cậu hay nhiều cậu.
Thiền sư Nguyên Thiều (chữ Hán: 元韶, 1648-1728) là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, nhưng sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ XVII. Ông là vị Tổ truyền phái Lâm Tế vào Miền Trung đầu tiên, và đã đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong.
Minh Lương thiền sư 明良禪師 không rõ năm sinh năm mất, là thế hệ thứ 35 tông Lâm Tế Đằng Ngoài (Việt Nam). Ông là đệ tử của Hòa thượng Viên Văn Chuyết Chuyết, đệ tử của ông nhiều người biết đến nhất là Hòa thượng Chân Nguyên Tuệ Đăng.
Thiền sư Như Hiện Nguyệt Quang thuộc tông Lâm Tế truyền sang miền Bắc, pháp hệ thứ 37. Sư nối pháp Thiền sư Chân Nguyên và truyền lại cho đệ tử là Tính Tĩnh.
Hòa thượng Thạch Liêm (chữ Hán: 石濂, 1633 – 1704) còn có tên là Thích Đại Sán (釋大汕), hiệu Đại Sán Hán Ông, tục gọi Thạch Đầu Đà (石頭陀); là một thiền sư Trung Quốc, đời thứ 29, tông Tào Động.
Sử liệu về Thiền Sư Tử Dung Minh Hoằng rất ít. Chẳng biết Sư tên gì, chỉ biết người tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa, theo Thiền sư Nguyên Thiều sang An Nam ở Thuận Hóa. Sau lập chùa Ấn Tông (tức là chùa Từ Đàm ở Huế hiện nay) rồi trụ trì ở đây.
Thiền sư Liễu Quán (1668 – 1743) là một cao tăng Việt Nam, thuộc thứ 35 trong dòng phái tông Lâm Tế. Ông là người sáng lập Thiền phái mang tên mình, một nhánh Thiền với phong cách đặc trưng của Văn hóa Phật giáo Việt Nam, còn truyền lại cho đến ngày nay.
Thiền sư Tính Tuyền (1674 – 1744) đời pháp thứ 39, tông Lâm Tế. Sư họ Huỳnh, quê ở Đa Nhất, Võ Tiên, tỉnh Nam Định. Năm 12 tuổi, Sư đến chùa Liên Tông đảnh lễ Thượng Sĩ xin thế phát xuất gia, thọ Thập giới. Ở đây sáu năm, Sư chuyên cần học tập, siêng năng hầu hạ không lúc nào lơ đãng.
Sư họ Nguyễn quê ở thôn Nghiêm Xá huyện Quế Dương tỉnh Bắc Ninh. Năm 16 tuổi, Sư xuất gia đến chùa Liên Tông đảnh lễ ngài Bảo Sơn Tính Dược xin thế độ.
Thiền sư Như Như (Sư Tổ Qụa) – đời thứ 45, tông Tào Động. Ngài pháp húy Quang Lư, Thích Đường Đường, hiệu Như Như, không rõ năm sanh và năm tịch. Chỉ biết Ngài thuộc hệ phái chùa Hồng Phúc (Hòe Nhai) đời thứ 9 và thứ 45 tông Tào Động. Ngài lập chùa Thiên Trúc (Mễ Trì, Hà Nội) và trụ trì tại đây.