Đại đức Thích Thiện Ân, thế danh là Lương Hữu Ba, sinh năm Kỷ Sửu (1949) tại xã Nghĩa Hưng, quận Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Phụ thân là ông Lương Châu và thân mẫu là bà Hồ Thị Ngọc.
Tổ Vĩnh Nghiêm, hay Hòa thượng Thích Thanh Hanh, thế danh Nguyễn Thanh Đàm, là một danh sĩ xuất thân từ làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Sinh năm 1840, trong một gia đình truyền thống với bề dày tri thức. Ngài đã bắt đầu học chữ Nho từ khi mới bảy tuổi, và với sự hướng dẫn của cha mình, sự tiến triển của Ngài trong học tập là rất đáng kể. Tuy nhiên, tinh thần của Ngài không hài lòng với cuộc sống trần tục, mà thay vào đó, nguyện vọng xuất gia chập chững nảy mầm trong tâm hồn trẻ thơ của Ngài.
Hòa thượng Thích Pháp Long, pháp danh Quảng Hương, pháp húy Trừng Hinh, pháp tự Pháp Long, pháp hiệu Từ Hội, nối pháp dòng Tế Thượng Thiên Thai Thiền Giáo Tông, đời thứ 42.
Hòa thượng Giác Tiên, họ Nguyễn, sinh năm Canh Thìn 1880 (năm Tự Đức thứ 33) tại làng Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Mặc dù đời thường của Ngài bắt đầu với sự mất mát sớm của cha mẹ, nhưng niềm đam mê tìm kiếm Đạo đã dẫn Ngài đến chùa Từ Hiếu khi mới 15 tuổi.
Hòa thượng Thích Thiện Hương, pháp danh Như Huệ, pháp hiệu Nhuận Huê, pháp tự Thiện Hương, pháp tự truyền thừa tông môn là Thị Huê, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42, thế danh Lê Văn Bạch sanh ngày 14 tháng 5 năm Quý Mão (1903), tại làng Tương An, tổng Bình Thổ tỉnh Thủ Dầu Một (nay là xã Tân An, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương).
Hòa thượng Thích Từ Phong, hay Nguyễn Văn Tường, sinh năm Giáp Tý (1864) tại Sông Tra, thôn Đức Hòa Thượng, tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương (nay là huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Ông là con út duy nhất trong gia đình nông dân có ba chị em.
Hòa thượng Thích Chí Tịnh, pháp danh Hồng Căn, thế danh Nguyễn Văn Đại sinh năm 1913 (Quý Sửu) tại xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
Hòa thượng An Lạc, hay còn được biết đến với tự Minh Đàng và thế danh Lê Ngọc Xuyên, là một danh sư lớn trong lịch sử Phật giáo. Sinh năm Ất Hợi (1874) tại tổng Thanh Phong, làng Mỹ Phong, nơi mà chính là địa phương của chùa Vĩnh Tràng, thành phố Mỹ Tho.
Tổ Trung Hậu là một nhân vật tuyệt vời của Phật giáo, thường được gọi là Tổ Trung Hậu. Chùa Trung Hậu, nơi mà Ngài đã dành phần lớn cuộc đời tu hành và giảng dạy. Hòa thượng Thích Trừng Thanh, thế danh Nguyễn Ất và pháp hiệu Thanh Ất, chào đời vào năm Tân Dậu (1861) tại làng Thượng Trưng, tổng Thượng Trưng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên.
Ngài được biết đến với danh xưng là Tổ Bằng Sở, xuất thân từ họ Phan, là hậu duệ của làng Hoành Đông, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Tổ Bằng Sở, hay còn được gọi là Chân Như, thuộc dòng thi lễ. Trong gia đình, tổ tiên của Ngài đã có thành tựu đáng kể và đã làm đến chức vị Quận công trong thời kỳ hậu Lê.
Hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh là Nguyễn Văn Đồng, có pháp danh là Trí Thiền và pháp hiệu là Hồng Nguyện, sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tại làng Vĩnh Thanh Vân, huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang). Ngài xuất thân từ một gia đình nông dân, con út của Cụ ông Nguyễn Văn Trinh và cụ bà Nguyễn Thị Trường, hai người đều gốc từ Cái Dầu, xứ Cao Lãnh, đã đến đây lập nghiệp và sinh hạ năm Ngài.
Hòa thượng Thích Thiện Thuận, pháp húy Nhật Dần, thế danh là Lê Văn Thuận, sinh năm Canh Tý (1900) tại Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là tỉnh Long An). Thân phụ là cụ ông Lê Văn Xúy và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Biền, thuộc thành phần trung nông và là một gia đình có truyền thống tu Phật nhiều đời.