Hòa thượng Thích Chánh Hậu, sinh năm 1852, có thế danh là Trà Xuân Tồn, gốc người Minh Hương, tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang.
Hòa thượng Hoằng Nghĩa, được biết tới với húy Như Phòng, thế danh Trần Văn Phòng, Ngài sinh ngày 29 tháng 9 năm Đinh Mão (1867) tại làng Bình Thới, tỉnh Gia Định. Thuộc dòng Lâm Tế Bổn Ngươn, đời thứ 39.
Tổ Phi Lai (Tổ Như Hiển – Chí Thiền), tên thật Nguyễn Văn Hiển, hay được biết đến với tên Pháp hiệu Chí Thiền, là một nhân vật vô cùng đặc biệt trong lịch sử Phật giáo. Ngài ra đời vào tháng 02 năm Tân Dậu (1861) tại Quảng Nam, xã Diêm Sơn, huyện Duy Xuyên, trong một gia đình có truyền thống làm quan triều đình và tận tâm với Phật pháp. Ông nội của Ngài là Hộ Quốc Công Nguyễn Công Thành, một quan Tổng Trấn Quảng Nam được lòng dân chúng dưới triều Tự Đức.
Hòa thượng Thích Mật Khế (1904 – 1935) là một hậu duệ xuất sắc của Hòa thượng Giác Tiên, người đã hướng dẫn và truyền đạt Phật pháp cho Ngài từ khi Ngài còn là một đứa trẻ. Ngài Mật Khế sinh vào năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Thái thứ 16 (1904) tại làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Hòa thượng Tăng Nê, sinh vào năm Kỷ Hợi (1889) tại Kinh Hai, thuộc ấp Vĩnh Thạnh, xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang), là một con người bản địa gốc Khmer.
Hòa thượng thế danh Hữu Nhiêm, pháp danh Suddhamma Paĩĩă (Tuệ Thiện Pháp), sinh năm 1917 tại thôn Trâu Trắng, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, tỉnh Minh Hải, trong một gia đình tu học thuộc cộng đồng Phật giáo Khmer Nam bộ. Ngài từ nhỏ đã quen với các tập tục lễ nghi và cách sống theo đạo, thường xuyên đến các chùa trong vùng để lễ bái, đọc kinh và học tiếng Khmer với các vị sư.
Tổ Giác Quang thế danh là Dương Văn Thêm sinh năm 1895 tại Làng Tân Sơn Nhì – tỉnh Gia Định, trong một gia đình trung lưu tại Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Ngài từng giữ các chức vụ quan trọng như Hương Hào, Hương Quản và Xã Trưởng xã Tân Sơn Nhì (nay là quận Tân Bình và Tân Phú thuộc TP. Hồ Chí Minh).
Hòa thượng Thích Vạn Ân, thuộc dòng Lâm Tế, tông Liễu Quán, đời thứ 42, húy Trừng Thành, sinh năm 1886 tại thôn Vạn Lộc, xã Hòa Mỹ, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Ngài xuất thân từ một gia đình Nho phong danh tiếng trong địa phương, với thân phụ là cụ Nguyễn Chơn Tịnh và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Liên.
Hòa thượng Thích Huệ Chiếu của dòng họ Nguyễn, được biết đến với pháp hiệu Huệ Chiếu, chào đời vào Rằm tháng ba năm Ất Mùi (1895) tại ấp Vĩnh Lộc, xã Bình Hòa, quận Bình Khê, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ của Ngài là ông Nguyễn Chơn Phước, và thân mẫu là bà Đặng Thị Nhu.
Hòa thượng Thích Minh Đức, hay còn được biết đến với thế danh là Lê Minh Chánh, ra đời vào ngày mùng 1 tháng 6 năm Nhâm Dần (1902) tại xã Phú Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Định Tường (nay là Tiền Giang). Sinh ra trong một gia đình thấm nhuần với lịch sử Nho giáo, Ngài đã sớm hiểu rõ y lý và nuôi dưỡng lòng kính tin đối với Phật giáo.
Hòa thượng họ Trần, tên là Văn Vinh, pháp danh là Chơn Phú, tự là Chánh Hữu, và hiệu là Thích Bích Lâm, chào đời vào ngày 24 tháng 11 năm Giáp Tý (1924) tại phường Đệ Nhị, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Thân phụ của Ngài là cụ Trần Đức Tựu và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Đủ.
Hòa thượng Thích Mật Nguyện, hay Trần Quốc Lộc, là một vị Hòa thượng thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 43, có thế danh là Tâm Như và pháp hiệu là Thích Mật Nguyện. Ngài ra đời vào ngày 25 tháng 6 âm lịch, tương đương với ngày 19 tháng 8 năm 1911, tại làng Phú Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, là con trưởng trong một gia đình gồm năm anh em. Cha Ngài là cụ ông Trần Quốc Lễ và mẹ là cụ bà Nguyễn Thị Hoàng.