Hòa thượng Thích Tâm Tịch, pháp hiệu Như Sơn, thế danh là Nguyễn Đình Khuê, sinh ngày 17 tháng 11 năm Ất Mão 1915, tại phố Hội Bình, tỉnh Yên Bái (nay là phường Hồng Hà, TP Yên Bái – tỉnh Yên Bái). Ngài nguyên quán tại làng Đình Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội; sinh trưởng trong một gia đình làm nghề thủ công mỹ nghệ. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Đình Văn; thân mẫu là cụ bà Lê Thị Cúc. Ngài là con út trong gia đình có 6 anh chị em. Năm 4 tuổi thân phụ qua đời và sau đó 10 năm thân mẫu cũng tạ thế.
Hòa thượng Huệ Quang, tên thật là Nguyễn Văn Ân, sinh năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau đó về Trà Vinh theo mẹ. Ngài là một vị cao tăng thạc đức, đã hy sinh cho công cuộc chấn hưng Phật giáo đến phút cuối cùng.
Hòa thượng, thế danh Trần Văn Ứng, pháp danh Thích Mật Ứng, sinh năm 1889 tại xã Vị Xuyên, tổng Đông Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, một địa phương nổi tiếng với nền Nho học, đồng thời là quê gốc của nhiều danh nhân văn chương, trong đó có nhà thơ Tú Xương.
Hòa thượng, thế danh Dương Văn Hiển, pháp danh Thông Hiển, hiệu Doãn Hài, lịch trình đời sinh vào năm Giáp Tuất (1874) tại làng Mai Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà, nơi nổi tiếng với nền văn hóa Nho giáo.
Hòa Thượng, hay còn gọi là Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, ra đời vào năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ của Ngài là ông Trần Tín, tự Phúc Châu, và thân mẫu là bà Vũ Thị Tú, hiệu Diệu Hòa.
Hòa thượng có thế pháp Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Thích Khánh Anh được sinh ra vào năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Từ khi còn nhỏ, Ngài đã theo học Nho và luôn thể hiện mình là một Nho sinh xuất sắc.
Hòa thượng, danh xưng Nguyễn Văn An, pháp danh Thích Pháp Hải, sinh ra vào năm Ất Mùi (1895) tại làng Thông Dong, quận Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc, hiện thuộc tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Văn Dá và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Tốt.
Ngài Mật Thể, còn được biết đến với pháp danh Tâm Nhất và pháp tự Mật Thể, sinh năm 1912 tại làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ngài thuộc Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, và là thành viên của dòng Thích Lý, thuộc dòng họ của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài chú trọng đạo Phật, cả cụ thân sinh và người anh ruột đều đã xuất gia.
Hòa thượng Thích Phước Nhàn, hay Trương Văn Ninh, ra đời năm Bính Tuất (1886) tại làng Phú Bình, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Mặc dù sinh ra trong một gia đình theo đạo Nho, tâm hồn của Ngài từ sớm đã được thấu hiểu sâu sắc về Phật giáo. Trong giai đoạn nhỏ tuổi, Ngài được gia đình đưa đi học chữ Nho, giúp Ngài sớm hình thành nền tảng vững chắc về văn hóa thi lễ truyền thống.
Hòa thượng có thế danh Nguyễn Văn Cự, pháp danh Ngộ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ, sanh ngày mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi (1875) triều Tự Đức thứ 28, tại làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.